Theo ghi chép, vua Lương Vũ Đế đã sẵn sàng đồng ý và tặng một tấm bảng hiệu (匾表) để bày tỏ sự chấp thuận của mình, và sắc chỉ ban biển ngạch đề “大樑廣德重玄寺” (Đại Lương Quảng Đức Trùng Huyền Tự) “重雲寺” (Trùng Vân Tự) bị nhầm lẫn là “重玄寺” (Trùng Huyền Tự), đây là lỗi trong quá trình sao chép.
Ngôi cổ tự Trùng Nguyên (重元寺) không ngừng phát triển và hưng thịnh cho đến giữa thời nhà Đường.
Hơn 270 năm sau, một nhà thơ vĩ đại triều đại nhà Đường, Tiến sĩ Vi Ứng Vật (韋應物, 737-792), lúc bấy giờ ông đang trên cương vị Thứ Sử Tô Châu, chức quan Trung Hoa thời xưa, làm giám sát một địa phương đã diễn tả về ngôi cổ tự Trùng Nguyên với cảm tác tựa đề “登重元寺閣” (Lên lầu gác Trùng Nguyên Tự):
時暇陟雲構,
晨霽澄景光.
始見吳郡大,
十里鬱蒼蒼.
山川表明麗,
湖海吞大荒.
合沓臻水陸,
驕闐會四方.
俗繁節又喧,
雨順物亦康.
Dịch Hán Việt:
Thì hạ trắc vân cấu,
Thần tễ trừng cảnh quang.
Thuỷ kiến ngô quận đại,
Thập lý uất thương thương.
Sơn xuyên biểu minh lệ,
Hồ hải thôn đại hoang.
Hợp đạp trăn thuỷ lục,
Kiêu điền hội tứ phương.
Tục phồn tiết hựu huyên,
Vũ thuận vật diệc khang.
Cầm ngư các tường vịnh,
Thảo mộc biến phân phương.
Vu tư tỉnh manh tục,
Nhất dụng khuyến canh tang.
Các nhà thơ triều đại nhà Đường như Lý Gia Hữu (李嘉佑, 719?-?), Bì Nhật Hưu (皮日休, 838-883), Lục Quy Mông (陆龟蒙, ?-881) và các thi nhân khác cũng cảm tác đề thơ mô tả ngôi danh lam cổ tự Trùng Nguyên.
Danh lam thắng tích Phật giáo Trung Hoa, khởi thuỷ với danh xưng “Đại Lương Quảng Đức Trùng Huyền Tự” (大樑廣德重玄寺), khai sơn vào đầu thế kỷ VI, niên đại Thiên Giám thứ 2 (503), Minh quân Hộ pháp Phật tử Lương Vũ Đế Tiêu Diễn (464-549), người sáng lập hoàng triều Nam Lương, đồng thời với các ngôi danh lam cổ tự tại Tô Châu như Hàn Sơn Tự (寒山寺), Linh Nham San Tự (靈巖山寺), Bảo Thánh Tự (保聖寺).
Minh quân Hộ pháp Lương Vũ Đế dùng Phật hóa trị quốc, toàn quốc sùng Phật, cơ sở tự viện Phật giáo được xây dựng khắp nơi. Vua Lương Vũ Đế cực lực tôn sùng Phật giáo, khuyến khích xuất gia, tạo lập nhiều cơ sở tự viện Phật giáo, xem đây là phương thức “tạo phúc báo” để ngôi vị được trường cửu.
Vua Lương Vũ Đế là người đề xướng “ăn chay trường” trong triều đình, sau đó ăn chay trở thành đại giới bắt buộc trong Phật giáo Đại thừa ở Trung Hoa.
Lúc bấy giờ tại Trường Châu có vị quan tên là Lục Tăng Tán (陆僧讚), nhân thấy từ vân (áng mây lành) phủ kín trên mái nhà tại tư gia, nên phát tâm cúng dường tư gia của mình để cải thành tự viện Phật giáo và đặt danh hiệu “Trùng Vân Tự - 重雲寺”. Minh quân Hộ pháp Lương Vũ Đế hay tin rất vui mừng và sắc chỉ ban biển ngạch đề “Đại Lương Quảng Đức Huyền Tự - 大樑廣德重玄寺“. Từ đó ngôi già lam này được gọi là “Trùng Huyền Tự - 重玄寺”.
Thời Đường Vũ Tông Hoàng đế Đại Đường (tại vị 840-846), niên hiệu Hội Xương ngũ niên (Ất Sửu; 842), về kinh tế xã hội, vua Đường Vũ Tông ra sức đàn áp tôn giáo, nhất là đạo Phật, ban thánh chỉ truyền đốt kinh điển, tàn phá tượng chư Phật, Bồ tát, phế bỏ cơ sở tự viện Phật giáo, cưỡng bức tu sĩ Phật giáo hoàn tục. Gây nên một vụ trấn áp lớn gọi là thời Pháp nạn Hội Xương (842-845). Ngôi Trùng Huyền Tự lúc ấy cũng bị phá hủy.
Sau khi pháp nạn đã qua, chư tăng đã tái kiến lại ngôi danh lam cổ tự ấy tại trấn Duy Đình, cách thành Tô Châu khoảng 30 dặm (1 dặm = 0.5 km = 500m tính theo dặm Trung Quốc) và đổi danh hiệu là “Trùng Nguyên Tự - 重元寺”.
Thời đại Tiền Lưu Ngô Việt Quốc (吴越国), niên hiệu Thiên Bảo (天寶, 908-923), ngôi danh lam thắng tích Đại Lương Quảng Đức Trùng Huyền Tự được tiến hành trùng tu đại quy mô, trở thành một trong những ngôi đại già lam nguy nga tráng lệ nhất trong thiên hạ. Mặt tiền hai hòn núi đất lưỡng tọa, tiền đình lập thạch lưỡng khối khác nhau, một bức tượng Phật Vô Lượng Thọ (無量壽 佛) bằng đồng cao đứng giữa trung tâm, 16 vị tôn tượng A La Hán lưỡng biên và năm tòa nhà riêng biệt.
Thời đại Tống Huy Tông Hoàng đế Đại Tống (trị vì 1100-1126), ngôi danh lam thắng tích Đại Lương Quảng Đức Trùng Huyền Tự được đổi danh hiệu “Thừa Thiên Tự - 承天寺”, vì triều đình cấm chỉ tự viện Phật giáo liên quan đến những mệnh danh “Thiên, Thánh, Hoàng, Vương” và ngôi Thừa Thiên Tự một lần nữa phải đổi danh hiệu là “Năng Nhân Tự - 能仁寺”.
Thời đại Tống Chân Tông Hoàng đế Đại Tống (trị vì 997–1022), Nam Sư Trinh (南師禎) cùng môn nhân gia tộc sau khi thương lượng và đã một lần nữa trùng tu lại ngôi danh lam thắng tích Phật giáo này.
Thời Nguyên Huệ Tông Hoàng đế Đại Nguyên (trị vì 1333-1370), niên hiệu Chí Thuận nguyên niên (1333), ngôi danh lam thắng tích Trùng Nguyên Cổ Tự đã bị hỏa hoạn phá hủy hoàn toàn.
Thời Nguyên Huệ Tông, niên hiệu Chí Chánh (1341-1368) được tái khôi phục lại do Trưởng lão Hoà thượng Duyệt Nam Sở trùng kiến, toàn bộ kiến trúc được phục dựng nguyên trạng quy mô như xưa.
Hai thời triều đại nhà Tống (960-1279) và Triều đại nhà Nguyên (1271-1368), lưỡng cá danh tự hợp thành một với danh xưng “Thừa Thiên Năng Nhân Tự - 承天能仁寺”.
Đến đời Thanh Thánh Tổ Khang Hy Hoàng đế (Trị vì 1662-1722), vì kỵ tên húy của vua là “Huyền” nên chùa đổi danh hiệu là “Trùng Nguyên Tự - 重元寺”cho đến ngày nay.
Thịnh suy hưng phế là một quy luật tất yếu như một vòng tuần hoàn khép kín. Cuộc đại cách mạng văn hóa - 文化大革命) được khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16/05/1966 là một giai đoạn hỗn loạn toàn bộ xã hội Trung Quốc, diễn ra trong 10 năm (từ năm 1966-1976) đã gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội Trung Quốc.
Cách mạng văn hóa này đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị và đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện. Tệ hại hơn, trong suốt cuộc cách mạng này, tất cả những gì liên quan đến các tôn giáo đều bị Hồng vệ binh tàn phá thẳng tay. Nhiều công trình tôn giáo như cơ sở tự viện Phật giáo, nhà thờ, tu viện của các tôn giáo khác và cả các nghĩa trang đều bị đóng cửa, bị cướp phá hoặc bị đập bỏ. Trong đó, ngôi Tuyết Đậu Tư Thánh Thiền Tự cũng chung số phận phải chịu cảnh tàn phá.
Điều khủng khiếp nhất của cuộc Cách mạng Văn hóa, Mao Trạch Đông và Lâm Bưu đã phát động một chiến dịch chống lại Bốn điều cần tiêu diệt này là tất cả “tư duy cũ”, tất cả “văn hóa cũ”, tất cả “thói quen”, tất cả “phong tục cũ” cùng lúc để làm sạch chính trị, kinh tế, tổ chức, và hệ tư tưởng (bốn dọn dẹp), với mục đích để thoát khỏi những khuôn mẫu Trung Quốc cũ và tạo ra một nề nếp mới.
Chiến dịch này được phát triển và thực hiện bởi Hồng vệ binh là việc sử dụng bừa bãi hình thức tra tấn, giết chóc những người vô tội. Trong đó, có các bậc thánh tăng hiền triết của Phật giáo, dẫn đến các vụ tự tử do nạn nhân không chịu được tra tấn và nhục nhã. Phật giáo Trung Quốc trải qua 10 năm đại nạn “Đại cách mạng văn hóa”, Phật giáo đứng mũi chịu sào, cơ sở tự viện bị chiếm, Phật tượng bị đập phá, tăng, ni bị trục xuất khỏi các cơ sở tự viện Phật giáo.
Sau thập niên 80, Trung Quốc đã thực hiện chính sách cải cách đổi mới, thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, cơ sở tự viện Phật giáo lần lượt khôi phục sinh hoạt, tăng ni xuất gia càng ngày càng đông, nhưng tăng tài của Phật giáo thì lại quá giới hạn.
Năm 2003, ngôi danh lam thắng tích Trùng Nguyên Cổ Tự mới đủ nhân duyên tái tạo lại, khôi phục lại diện mạo của Tổ đình. Ngôi chùa đã được phục dựng lại trên diện tích 300 mẫu, đại đường quy mô trang nghiêm hùng vĩ, ngôi tòng lâm phạm vũ nằm trên vùng đất bán đảo tuyệt đẹp, bên cạnh hồ Dương Trừng, một hồ nước ngọt cách thành phố Tô Châu 3 km về phía đông bắc, trong tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Giữa hồ lại có một hòn đảo nhỏ, trên đảo kiến tạo một Toà Quan Âm các cùng với Trùng Nguyên Cổ Tự hợp thành Liên Hoa Phật Quốc, Quan Âm Đạo tràng, Vạn Phật trang nghiêm tạo nên một cảnh sắc vô cùng độc đáo.
Ngôi danh lam thắng tích Trùng Nguyên Cổ Tự được trùng hưng thể hiện sự thành tựu đạo tràng của Tam bảo, ba ngôi quý báu, Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo uy nghiêm, phật pháp hưng thịnh, trường tồn.
Ngôi cổ tự Đại Lương Quảng Đức Trùng Huyền Tự (Trung Nguyên Tự) lọt vào “Top 10 danh lam thắng cảnh Phật giáo đẹp nhất cả nước Trung Hoa”: Tòa Quán Âm Các (觀音閣) cao hơn mặt nước - 46 mét, tượng Bồ tát Quán Thế Âm (觀世音菩薩像), tôn trí phụng thờ trong nội thất cao - 33 mét, tượng Bồ tát Quán Thế Âm (觀世音菩薩像), tôn trí phụng thờ trong nội thất nặng nhất nước - 88 tấn đồng, Trống gỗ da trâu bịt 2 mặt lớn nhất nước - đường kính 2,19 mét, ngôi Đại Hùng Bảo điện (大雄寶殿) cao lớn nhất nước cao 38 mét, rộng 2100 mét vuông, nhóm nghệ nhân điêu khắc tượng Bồ tát Quán Thế Âm hoàn hảo nhất và sống động nhất, tượng Phật tôn trí thờ tại Đại Hùng Bảo điện lớn nhất nước, Gác chuông và Lầu trống lớn nhất nước, chiếc Cầu Phổ Tế (普濟橋) trong nội viện dài nhất - 99 mét, Ao Phóng sinh - Hồ Dương Trừng (放生池-陽澄湖) lớn nhất. . .
Trung tâm Thiền tọa lạc tại Pháp đường, Nội viện của ngôi cổ tự Trùng Nguyên. Dựa vào lực lượng giáo thọ sư thiền học thâm hậu và Thư viện Hàn Sơn phong phú, nơi đây cung cấp một không gian tu tập trang trọng, yên tĩnh và trang nhã để tuyên dương Diệu pháp Như Lai, công phu tu tập thiền định, niệm Phật. Với những hoạt động Phật giáo phong phú và đầy màu sắc, bạn sẽ dần dần khai mở bản chất tự do, sống động của mình, tận hưởng cuộc sống, thăng hoa tâm trí.
Tác giả: Thích Vân Phong
Bình luận (0)