Trang chủ Đời sống Tu hạnh Đầu đà của đạo Phật và tu Khổ hạnh của ngoại đạo

Tu hạnh Đầu đà của đạo Phật và tu Khổ hạnh của ngoại đạo

Chúng ta hiểu rằng hạnh đầu đà (dhūta-guna, 頭陀行) là một trong nhiều phương pháp tu tập, ai thích hợp với phương pháp tu tập nào thì cứ tự do chọn phương pháp đó mà tu tập phải phù hợp với hoàn cảnh thời đại.

Đăng bởi: Anh Minh
ISSN: 2734-9195

Chúng ta hiểu rằng hạnh đầu đà (dhūta-guna, 頭陀行) là một trong nhiều phương pháp tu tập, ai thích hợp với phương pháp tu tập nào thì cứ tự do chọn phương pháp đó, cách hành trì và tu tập phải phù hợp với hoàn cảnh thời đại.

Hành giả tu khổ hạnh (Sādhu), trong chú giải tiếng Pali, danh từ “Sādhu” chỉ được sử dụng để chỉ các hành động thiện. “Sādhu” là những hành giả tu khổ hạnh, được người dân Ấn Độ và Nepal tôn sùng, coi như thánh sống.

Việc tự tu các hạnh đầu đà (dhūta-guna, 頭陀行) mà chưa trải qua thụ các giới phẩm của đạo Phật, không thụ Sa di, không thụ giới cụ túc giới (sự thành tựu trọn vẹn), không nhận giới thể trang nghiêm thanh tịnh của đức Phật chế, không thụ trì giới luật, không thụ giáo hạnh đầu đà từ các bậc thầy tôn kính, sẽ không tác thành nên hạnh đầu đà của đạo Phật mà chỉ trở thành sự tu khổ hạnh của ngoại đạo.

Hiện nay, đang làn sóng truyền trên mạng xã hội và các phương tiện truyền thông hay truyền khẩu trong dân gian cho rằng, người tu sĩ Phật giáo đều phải tu tập các hạnh đầu đà (dhūta-guna, 頭陀行) mới đúng với tinh thần của đạo Phật. Nhưng ý kiến này không chân thực. Tại sao, bởi các vị thánh tăng đại đệ tử của đức Phật, chỉ có Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là một vị thánh tăng gương mẫu với phẩm hạnh đầu đà đệ nhất trong 10 vị đại đệ tử của đức Phật.

Các vị đại đệ tử còn lại, như Tôn giả Ānanda, Tôn giả Upāli, Tôn giả Sāriputra. . . đều không chuyên tu hạnh đầu đà. Như thế các vị tỳ kheo này có phải là những vị thánh tăng hay không? Hàng nghìn năm lịch sử Phật giáo Việt Nam đâu phải vị tu sĩ Phật giáo nào cũng tu hạnh đầu đà?

Lịch đại Tổ sư các thiền phái Phật giáo Việt Nam, Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6 (khoảng năm 580), Thiền phái Vô Ngôn Thông hiện diện tại Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 9 (khoảng năm 820), Thiền phái Thảo Đường do Thánh vương Lý Thánh Tông sáng lập vào đầu thế kỷ 11, Thiền phái Trúc Lâm do Thánh vương Trần Nhân Tông sáng lập vào cuối thế kỷ 13.

Thiền phái Lâm Tế xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỷ 17, do Tổ sư Nguyên Thiều Thọ Tông (Siêu Bạch Hoán Bích -1648-1728) đến từ Quảng Đông, Trung Hoa và khởi xướng đầu tiên tại Việt Nam, Thiền phái Tào Động do Quốc chúa Minh Vương Bồ tát Nguyễn Phúc Chu tiếp nhận từ Trung Hoa và khởi xướng vào thế kỷ 17 và Tào Động Tông truyền ở miền Bắc (Đàng Ngoài) do Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu Thông Giác (1636–1704) tiếp nhận từ Trung Hoa và khởi xướng. . .

Tap chi Nghien cuu Phat hoc tu hanh dau da kho hanh cua Dao Phat va ngoai dao 1 Các thiền phái này đều có trú xứ, trụ trì một số cơ sở tự viện Phật giáo. Thế mà các Ngài vẫn kiến tính chứng ngộ yếu chỉ phật pháp và truyền lưu pháp mạch chính pháp nhãn tạng của Phật tổ.

Thực tế cho thấy, hàng nghìn năm lịch sử Phật giáo truyền lưu hậu thế, chúng ta biết đạo Phật cần có phương tiện thiện xảo thông qua khế cơ khế lý (vận dụng sao cho vừa hợp với đạo lý, vừa hợp với trình độ của chúng sinh). Khi đến Đông Á, đạo Phật tùy duyên thích nghi với người dân nơi đó, nhằm hòa nhập với dân phong quốc tục bản địa để phát triển phù hợp với họ.

Hình thức nhập thất là cắt đứt mọi liên hệ với xã hội, một phương pháp rốt ráo nhất, để cho chúng ta tu tập thiền định, niệm Phật, hay trì chân ngôn mật chú… người ta cất một cái cốc (một căn nhà nhỏ), trong căn nhà này chỉ có giường nằm, một cái bỉnh đựng nước uống, chén đĩa dùng để ăn và uống, một cái chăn để đắp và một cái mùng để tránh muỗi, mọi thứ đều phải giản tiện tối đa.

Trước khi nhập thất, người ta phải chuẩn bị thức ăn, nếu không có người giúp đỡ, người ta chỉ ăn cơm khô (cơm phơi khô), nếu có người giúp đỡ, nhờ người đem thức ăn đến cho ta hàng ngày, đây là một ví dụ điển hình về một trong những phương pháp tu tập của liệt vị Tổ sư tại các nước phương Đông.

Ngày nay, đạo Phật nhiệm mầu, ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, tự do, bình đẳng Phật pháp đã hiện diện ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có các nước vùng ôn đới như các quốc gia Tây Âu và Bắc Mỹ. Liệu các vị tu sĩ Phật giáo có thể thực tập khước từ hết tất cả tiện nghi, ở thâm sơn cùng cốc, rừng xanh trong điều kiện mùa đông khắc nghiệt bởi lạnh rét tột độ ở đây không? Chúng ta phải thích nghi với thời tiết. Đức Phật sống ở Ấn Độ và mùa đông ở Ấn Độ không băng như Alaska hay Vương quốc Anh quốc.

Cũng như thế, ngày nay dân gian thế nhân phê phán các vị tu sĩ Phật giáo trụ tại các cơ sở tự viện là không có cơ sở. Ngay từ thời đức Phật, Ngài đức Phật đã thụ nhận Tinh xá Kỳ Hoàn do trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) cúng dường khu đất và Thái tử Gida-taishi (Kỳ-đà) cúng dường vườn cây, Tinh xá Trúc Lâm do Quốc vương Bimbisāra (Tần bà sa la, बिम्बिसार, trị vì:544 TCN – k. 493 TCN) đã dâng cúng, đức Phật đã cho phép Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp sử dụng các cơ sở tự viện Phật giáo này.

Các cơ sở tự viện thời đức Phật, nơi các vị Thánh tăng tuyên dương Diệu pháp Như Lai, hoằng dương chính pháp Phật đà và tiếp nhận đồ chúng tu học Phật pháp. Theo dòng thời gian, đoàn du tăng phát triển cùng với những cơ sở tự viện Phật giáo. Nếu không có cơ sở tự viện Phật giáo, chúng tăng ngày càng đông thì không có cơ sở tiện nghi tu học, đặc biệt là ở những nơi ít rừng rậm như tại các đô thị phương Đông thời cổ trung đại.

Không có Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp, không có giảng đường, không có cơ sở vật chất, hàng cư sĩ phật tử tại gia, quần chúng sẽ không nhận được pháp âm vi diệu và được truyền cảm hứng đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai từ Tăng bảo. Thế là có thể thấy ngoài mối tương tác phụ thuộc lẫn nhau giữa tứ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ như cỗ xe tứ mã, các điều kiện vật chất của thế gian cần được sử dụng để hộ trì Tam Bảo.

Tap chi Nghien cuu Phat hoc tu hanh dau da kho hanh cua Dao Phat va ngoai dao 2

Cho nên chúng ta hiểu rằng hạnh đầu đà (dhūta-guna, 頭陀行) là một trong nhiều phương pháp tu tập, ai thích hợp với phương pháp tu tập nào thì cứ tự do chọn phương pháp đó mà tu tập phải phù hợp với hoàn cảnh thời đại.

Nền tảng cốt lõi của đạo Phật là Bồ đề tâm, Bản thể tự tâm đầy khắp thời gian không gian, tất cả đều thuộc về chính mình, ngoài tâm chẳng có pháp để đắc, nên giác ngộ cái Tâm vô sở đắc, tức là Bồ đề, đích đến của đạo Vô thượng Bồ đề là cởi bỏ được sự trói buộc của phiền não mà vượt thoát khỏi thế giới mê muội khổ đau, hành trình đi đến đạo Vô thượng Bồ đề nhanh hay chậm do công trì giới đạo đức thanh cao, thiền định và chứng trí tuệ bát nhã.

Nếu mê chấp một phương pháp cho rằng đây là phương pháp tối thượng đến đạt đến quả quả vị vô sinh pháp nhẫn khế hợp chân lý. Chính pháp Thích Ca Như Lai là chẳng lọt hai bên tương đối gọi là Trung đạo, cũng chẳng trụ nơi chính giữa, chẳng đắm mê thái quá cực đoan.

Đức Phật, khi còn là Đông cung Thái tử Siddhattha Gotama khi ngự tại cung vàng điện ngọc thụ hưởng thụ hưởng thụ lạc thú vật chất xa hoa cách thái quá cực đoan, khi ngài xuất gia, trải qua sáu năm tu hành khắc khổ một cách thái quá cực đoan. Sau đó, Ngài đã nhận ra rằng lối tu khổ hạnh thái quá cực đoan không phải con đường đưa đến giải thoát những nỗi khổ niềm đau.

Trong kinh A Hàm, đức Phật dạy rằng: “Thế giới này phần lớn dựa vào hai kiến chấp là: CÓ và KHÔNG, Một và Nhiều.v.v. . .Tất cả đều CÓ là kiến chấp thứ nhất, tất cả đều KHÔNG là kiến chấp thứ hai, tất cả đều Một là kiến chấp thứ ba, tất cả đều Nhiều là kiến chấp thứ tư. . . Viễn ly những kiến chấp là Như Lai thuyết Trung đạo.

Kim ngôn khẩu ngọc giáo lý quý báu của đức Phật rõ ràng là chủ trương phá chấp, tức không chấp thủ. Không chấp thủ không có nghĩa là tiêu cực thụ động, khung khổ mà trái lại không chấp thủ là để phát huy trọn vẹn tinh thần tự do tự tại vô quái ngại, không vướng mắc vào danh tướng, không chấp thủ có nghĩa là đi đến Trung đạo. Điều này có nghĩa là phải “không thấy một pháp nào là khả thủ thì mới không phạm lỗi, biết như thế thì đối với mọi thế gian sẽ không có sở thủ, người không có sở thủ sẽ chứng ngộ quả vị Niết bàn”.

Như thế, Trung đạo chính là viễn ly nhị biên tà kiến đối đãi, tức là trụ chấp KHÔNG cũng chẳng trụ chấp CÓ, không vướng mắc vào bên này cũng chẳng vướng mắc vào bên kia. . . tất cả các khái niệm đó đều bị đoạn trừ bằng chính trí, bằng trí tuệ của bậc Thánh. Nói như thế có nghĩa là tất cả vạn vật đều do nhân duyên sinh, sự sống chỉ là dòng sinh hoạt biến động, hòa hợp liên tục vô cùng, chúng hỗ tương ảnh hưởng lẫn nhau, quan hệ lẫn nhau trùng trùn vô tận: “Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi ”. (Trích Kinh Tạp A Hàm).

Sa môn Vân Tuyền

7 bình luận

Quốc Huy 05/06/2024 - 12:29

6 năm đầu Phật tu hành xác theo Bà Là Môn, nhịn ăn ép xác, sau Ngài từ bỏ và tu theo lối trung đạo và pháp tu hạnh đầu đà là khổ hạnh trung đạo, vẫn ăn ngày một bữa, vẫn có thiền định nghỉ ngơi nhưng là ngủ ngồi. Nhưng một số thầy lại dùng từ khổ hạnh theo lối tu hành xác để gán cho tu hạnh Đầu Đà theo tôi là chưa đúng. Tôi cũng không đồng tình cách phân biệt đầu đà của Đạo Phật và khổ hạnh của ngoại đạo. Một người tu hạnh đầu đà thành tựu là phẩm hạnh hơn cả một số vị đang ngồi viết bài này đấy. Dù cho người đó tự phát nguyện tu tập. Những giới luật tâc giả đưa ra là áp dụng cho người đang ở trong tự viện nhưng không phải ai không ở trong tự viện thì cho rằng ngoại đạo. Ngay cả cư sĩ, phật tử không ở trong chùa, sống tại gia thì chúng tôi vẫn là người theo Phật, không thể gọi là ngoại đạo được. Những nội dung tác giả nêu ra không phải là căn cứ để bác bỏ hay khẳng định đó là đầu đà của Phật hay ngoại đạo. Một người theo hạnh đầu đà nghiêm trì là họ đã đáp ứng được những điều mà tác giả đưa ra, nếu không thì họ sẽ không thực hành được hạnh này nhưng một người tu trong chùa chiền, thọ giới Sa Di, cụ túc, giới luật, tác thành hạnh đầu đà từ bậc tôn túc thì cũng chưa chắc sẽ thực hành trọn vẹn được hạnh này. Nghe, hiểu và thực hành là hai cái khác nhau. Hạnh đầu đà đòi hỏi về sức khoẻ, tinh thần, ý chí, tỉnh thức và nghị lực mạnh mẽ của người tu chứ không phải chỉ lệ thuộc vào việc bạn là sadi hay chưa, bạn có thụ giới và tác thành hay không. Như tác giả bài này chắc hiểu nhiều về hạnh đầu đà, là sa đi và có giới luật đầy đủ nhưng có thực hành được hạnh đầu đà hay không? Vậy người đã thực hành được sao lại phân biệt trong hay ngoài đạo? Còn tác giả cho là là sóng bắt người tu phải theo hạnh đầu đà mới là chân tu thì không đúng. Như thầy Minh Đạo vừa rồi, vẫn tu trong tu viện nhưng mọi người vẫn yêu thương, kính trọng và bảo vệ thầy đó thôi, và tôi nghĩ sau câu chuyện vừa qua thì tu viện thầy Minh Đạo được nhiều phật tử quan tâm thăm viếng nhiều hơn trước. Vậy chứng tỏ đâu phải bắt các thầy phải theo hạnh đầu đà mới là châ từ, người ta vẫn tôn kính sư Minh Đạo và nhiều thầy khác dù không theo hạnh đầu đà đó thôi.

Trả lời

Nên tôn trọng mọi pháp tu, không nên có sự phân biệt.

Trần Lê Nguyên 04/06/2024 - 22:15

Khi một người đã thực hành tốt 13 hạnh đầu đà thì chắc chắn họ đã đạt được những tiêu chuẩn mà đức Phật đã đặt ra, không cần phải có một người thế gian nào công nhận thay cho họ được nữa, cho nên đừng đem những yếu tố sa di, giới túc, trang nghiêm, giới luật…để đặt ra làm rào cản ban đầu. Tôi chắc chắn rằng một người dù ở trong hay ngoài đạo Phật, ngay cả không theo đạo Phật mà họ thực hành được 13 hạnh đầu đà không sai lệch một chút nào thì họ đã đủ những yếu tố đức Phật đặt ra rồi. Tóm lại, bài viết này chưa có cái nhìn khách quan, còn mang tính chống chế cho pháp tu ở tự viện. Tôi thấy bài viết của cư sĩ Minh Mẫn khách quan và khái quát đúng theo hạnh đầu đà Phật giáo, có cái nhìn tích cực với người tu pháp môn này. Tôi thấy nhiều người có khái niệm “ngoại đạo” dường như chưa đúng, thế nào là ngoại đạo? Ngoại đạo là người không theo đạo, không ở trong đạo, không sinh hoạt tôn giáo đó, hay là người không ở trong Giáo hội? Chùa chiền là nơi đệ tử phật tử tìm đến để tu tập nhưng người tu theo hạnh đầu đà, du tăng lại là người mang đạo Phật đến cho người khác, nên hãy luôn tán thán và tôn trọng họ. Người tu sĩ không nên mang tư tưởng tăng thượng mạn.

Trả lời
Bùi Phan 04/06/2024 - 14:55

Bài viết hay.vì theo Tôi,trươc bất cứ một sư vật hiện tượng nào,ta cũng cần có cái nhìn khách quan ,đúng đắn,nhìn rõ bản chất của sự vật. phân biệt rõ đúng ,sai…Nghĩa là có “Chánh kiến”. Tu hạnh đầu đà theo pháp môn của Đức phật khác với tu khổ hạnh của ngoại đạo là điều tác giả đã làm rõ trong bài viết này.Đọc kĩ để hiểu,đừng vì cảm nhận chủ quan để dánh giá một cách cực đoan rồi làm mất đi vai trò của lí luận.

Trả lời
Ngọc Phạm 04/06/2024 - 21:20

Tu theo hạnh đầu đà tôi đã nghe nhiều thầy giảng và đọc nhiều tài liệu, không áp đặt phải là có truyền lại hoặc cho phép mới được gọi là hạnh đầu đà của Phật, nhiều thầy hiện nay vẫn khẳng định những người như thầy Minh Tuệ là thực hành theo đúng hạnh đầu đà đó thôi. Tuy nhiên dù cho có người truyền thừa theo kiểu trong chùa chiền hay tự tu theo hạnh đầu đà bên ngoài thì ai thực hiện tốt hơn vẫn được xem là người tu hành chứng đắc hơn vì nhiều người chưa xuất gia nhưng thông hiểu giáo lý thực hành theo lời đức Phật vẫn chứng đắc quả, tu hành là tự mỗi người thắp đuốc lên đi, và bài viết này nội dung đề cao việc tu trong chùa hơn so với việc tu hạnh đầu đà, khi đọc sẽ nhìn rõ ý đồ của tác giả chứ không phải chỉ đơn giản là phân tích hạnh đầu đà là thế nào, và hạnh đầu đà của Phật cũng chỉ nói rõ 13 pháp tu khổ hạnh, không đính kèm những điều lệ, yêu cầu như cách tác giả đã liệt kê. Tôi đã nghe thầy Thích Chân Tính, Thích Thiện Trang và một số bài viết trong tư liệu để lại đều thấy không có sự phân biệt như bài của tác giả này. Tác giả đang bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông, từ làn sóng dư luận, cho nên các ý kiến phản biện dưới đây là gì? họ chấp nhận cách nhìn cực đoan của tác giả này, mỗi người chọn một phương pháp tu hành thì không cần phải phân bua lý giải quá nhiều vì hạnh đầu đà không phải chỉ đợi đọc bài này người ta mới hiểu. và người ta cũng không quan tâm bạn đang tu theo hạnh đầu đà của Phật hay bạn là ngoại đạo mà cái cần là bạn thực hành hạnh đó có hiệu quả hay không? bền bỉ không? một người thông lào kinh điển, đọc nhiều nhưng không thực hành được hiệu quả thì cũng chỉ là người đọc Kinh Phật chứ không phải người tu theo Phật, và chắc rằng người ta đều hiểu các thầy khi ở trong chùa tu đều phải tuân theo các quy trình quy định từ thấp đến cao nhưng quan trọng là thực hành vận dụng được tốt hay không hay tu 30,40 năm mà sân si vẫn còn? cực đoan là khi bạn bám vào một lý luận mà không tách rời khỏi nó để nhìn ở mặt khác hiệu quả hơn, đó là thực hành, bài viết này chỉ diễn giải lý luận nhưng còn chen vào đó những lý giải bảo vệ cho việc tu hành ở trú xứ, điều này cho thấy đang đề cao pháp môn của bản thân và có ý coi thường pháp tu khác, nhất là coi người khác là ngoại đạo, đã là người tu học theo Phật thì không ai ngoại đạo, ngoại đạo là khi bạn mang đạo khác hoặc không theo đạo mà thôi, còn đã thực hành miên mật nghiêm túc theo pháp tu của Phật để lại đều là người tu học chân chính, không có tu sĩ quý tộc, tu sĩ cung đình với tu sĩ đường phố, Phật không phân biệt điều đó và cũng không bao giờ dạy ai được phân biệt điều đó. Và những ý kiến phản hồi tôi cũng đồng ý, đó là hãy tôn trọng cách tu học của những người hướng đến Phật pháp, Phật còn ở với ăn mày để giáo hóa mà các thầy thì cứ phân biệt thế nọ thế kia, lý luận làm cho nó trở nên khiên cưỡng thay vì thực hành tâm từ bi, hỷ xả, tán thán công hạnh người tu, người tu bên ngoài lẽ ra còn nên được tán thán hơn chứ không phải bằng giọng điệu coi thường như tác giả bài viết này. và cũng không ai phê bình những người trú xứ trong tự viện là không chân chính, đó là vì sự nhạy cảm mà một số thầy bị ảnh hưởng từ làn sóng bên ngoài chứ người ta chỉ lên án những người nào sai phạm mà thôi. nếu các thầy trong chùa tu hành đúng chánh pháp, miên mật hành trị vẫn được kính trọng, nên đừng so sánh hay trách cứ đám đông, hãy xem đây là thử thách của bản thân mình, nếu tu mà không vượt qua được chướng ngại, nếu tu mà chỉ muốn nghe lời khen mỹ miều đẹp đẽ thì đó không phải là tu. Vài lời gửi đến bạn và các thầy.

Trả lời

Việc tu học nên có cái nhìn mở

Người học Phật 04/06/2024 - 01:01

Thiên tài thì không theo lối mòn, kinh điển giáo lý là xương sống nhưng vận hành linh hoạt giữa khoa học & đời sống. Tác giả cho rằng ai phù hợp với pháp tu nào thì chọn pháp tu đó, vậy thì hà cớ gì phải phân biệt đầu đà của Phật và khổ hạnh của ngoại đạo? Nhìn lại thời gian qua người so sánh không phải người tu hạnh đầu đà, không phải người tu khổ hạnh. Khi nào những người tu đầu đà, khổ hạnh nói pháp tu đầu đà mới thành phật, buộc người tu nào cũng tu theo giống họ và nếu họ cho rằng như vậy mới là chân tu thì khi đó các thầy hãy lên tiếng. Còn những bình luận của dư luận trên MXH trái chiều thì tác giả quan tâm làm gì. Đã là người tu sao còn quan tâm đến thị phi, phải đi lý giải hơn thua với cộng đồng mạng làm gì? Nó chẳng ý nghĩa gì cho việc tu hành của thầy tu cả. Tôi nghĩ tốt nhất các thầy đang tu hành trong chùa cứ lẳng lặng mà tu thôi, miệng đời họ nói chung chung, không nêu đích danh minh thì mình lên tiếng phân bua kèm vài câu ám chỉ phủ nhận làm gì? Chỉ càng làm người đọc thấy không thoải mái vì bài viết có tính phân biệt hơn thua. Tôi nghĩ các sư sãi cứ tu hành cho tốt, càng ít tham gia vướng bận thị phi càng mau giải thoát. Chấp ngã đố kỵ chỉ làm cản trở bước đường tu.

Trả lời
Vân Đông 03/06/2024 - 11:12

Một bài viết chấp nặng vào hình tướng. Các ngài tu hạnh nào thì cứ tu cho đắc đi. Tại sao cứ phải đi giải thích phân bua và bác bỏ người khác là ngoại đạo nhỉ? Bao nhiêu đó thôi đã thấy chưa đúng cái tâm của người tu rồi. Tôi ko khuyên các vị đi theo hạnh đầu đà. Tôi chỉ khuyên các thầy bỏ bớt sân si đi. Bớt cho mình cái quyền ôm phật pháp vào riêng mình đi. Phật ko của riêng các thầy. Một nghìn lời lý thuyết, hình thức ko bằng một pháp hành. Có ai buộc các thầy đi tu theo hạnh đầu đà đâu mà các thầy cứ phải lên hết bài này đến bài khác để phản bác người ta là ngoại đạo? Bao nhiêu đó thôi là thấy các vị dù có tu pháp môn nào cũng khó mà đắc đạo lắm. Người tu hành ko cần biện minh cho mình đến mức vậy đâu. Thế giới có hàng triệu con mắt nhìn vào. Ai thế nào, người ta có cái não, người ta tự biết tu thật hay ko, ko cần các ngài giải thích giáo điều lý thuyết, hình thức y bát. Ngày xưa Phật ko cho nhận tiền, bây giờ các thầy vẫn nhận tiền đấy. Vậy chiếu theo giới luật các thầy đó có đúng ko? Sao quyền lợi của các ngài thì các ngài cho phép sửa giới luật còn người khác tu hành thì cho là ngoại đạo? Ngoại đạo vì ko ở trong cái tổ chức của các ngài chứ người ta vẫn tu hành đàng hoàng thì vẫn được nhân dân tôn kính và công nhận nhé. Ko cần các ngài công nhận. Đừng tự cho mình cái quyền vượt trên đức Phật, vượt trên thiên hạ. Đat Lai Lạt ma cũng khẳng định tự học, chân lý đức Phật là tự mình tìm ra chứ ko phải ở trong chùa nhé. Càng giải thích nhiều, càng phản biện nhiều càng thấy con đường tu hành của các ngài thu hẹp lại đấy.

Trả lời

đạo phật chính tông và ngoại đạo

Trần Thành 03/06/2024 - 10:44

bài viết cho góc nhìn về hạnh đầu đà rất hay, cảm ơn tác giả, mong có nhiều bài vè hạnh đầu đà nhưu này, để chúng tôi đọc và phân biệt được giữa đạo phật chính tông và ngoại đạo

Trả lời

Để lại bình luận

Bạn cũng có thể thích

Logo Tap Chi Ncph 20.7.2023 Trang

TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ

Phòng 218 chùa Quán Sứ – Số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Điện thoại: 024 6684 66880914 335 013

Email: tapchincph@gmail.com

ĐẠI DIỆN PHÍA NAM

Phòng số 7 dãy Tây Nam – Thiền viện Quảng Đức, Số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, Tp.HCM.

GIẤY PHÉP XUẤT BẢN: SỐ 298/GP-BTTTT NGÀY 13/06/2022

Tạp chí Nghiên cứu Phật học (bản in): Mã số ISSN: 2734-9187
Tạp chí Nghiên cứu Phật học (điện tử): Mã số ISSN: 2734-9195

THÔNG TIN TÒA SOẠN

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

Gs.Ts. Nguyễn Hùng Hậu

PGs.Ts. Nguyễn Hồng Dương

PGs.Ts. Nguyễn Đức Diện

Hòa thượng TS Thích Thanh Nhiễu

Hòa thượng TS Thích Thanh Điện

Thượng tọa TS Thích Đức Thiện

TỔNG BIÊN TẬP

Hòa thượng TS Thích Gia Quang

PHÓ TỔNG BIÊN TẬP

Thượng tọa Thích Tiến Đạt

TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP

Cư sĩ Giới Minh

Quý vị đặt mua Tạp chí Nghiên cứu Phật học vui lòng liên hệ Tòa soạn, giá 180.000đ/1 bộ. Bạn đọc ở Hà Nội xin mời đến mua tại Tòa soạn, bạn đọc ở khu vực khác vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số: 024 6684 6688 | 0914 335 013 để biết thêm chi tiết về cước phí Bưu điện.

Tài khoản: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC

Số tài khoản: 1231301710

Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam (BIDV), chi nhánh Quang Trung – Hà Nội

Phương danh cúng dường