Như Trừng – Lân Giác Tổ sư
Húy danh Trịnh Thập Vương tử Phổ Quang
Mùng năm tháng năm nhập đàn
Một sáu chín sáu (1696) Chuột vàng trời ban
Góc trán ấn chữ nhật hoàng
Lớn lên Phò mã, cung đàn Hy Tông[1]
Thọ Xương, Bạch Mai phổ đồng
Ân Phật, ân Tổ… Liên Tông hoa thiền
Đồi Mai Phong… đào ao tiên
Một cành sen trắng… nhiệm huyền xưa sau
“Cải gia vi tự” mật đào
Liên Tông, Ly Cấu… dạt dào đạo ca.
Nhà bia và khu chùa chính của chùa Liên Phái năm 1952. Ảnh: St
2. Từ quan xuất gia
Dâng sớ xin vua xuất gia
Một lòng cầu đạo, phủi tòa áo quan
Duyên xưa như đã rỡ ràng
Vua thuận cho phép nhập đàn thiền na
Đông Triều – Long Động ma ha
Chân Nguyên Yên Tử Lăng Già non thiêng
Thiền sư Chánh Giác đại hiền
Như đang chờ đón thắng duyên sư đồ
Tổ rằng: Sao chậm con thơ?
Sư thưa:
Thầy trò hội hiệp đến giờ gặp nhau!
Tổ rằng: Phật pháp truyền trao
Trùng hưng Tam Bảo mai đào phần con.
3. Thọ pháp, hoằng pháp
Từ đây mài miệt Linh Sơn
Tam tạng kinh luận lối mòn suốt thông
Oai nghi cầu thọ luật ròng
Cụ túc giới pháp nối dòng Phật gia
Sư về Liên Tông thủ tòa
Trụ vương gia pháp hàng sa hoằng truyền
Trì Như Lai tạng thắng duyên
Thu nhận tứ chúng Phổ Hiền tông phong
Môn đồ đệ tử rất đông
Phật pháp hiển lộ đạo đồng xiển dương.
4. Phó chúc, viên tịch
Một ngày hiện tướng kiết tường
Báo tin quy tịch vô thường sắc không
Ba mươi bảy (37) năm bụi hồng
Chân Nguyên hòa thượng thiền tông giáo truyền
Nay ta phủi sạch trần duyên
Hãy nghe kệ pháp tảng nền về sau
“Vốn từ không, gốc tâm giaoTừ không mà đến ra vào có khôngTừ không mà phủi bụi hồngTa vốn không đến đi… tòng pháp duyênTử sanh nào có lụy phiềnSắc không vô tận triền miên Ta bà!”
(Bản tùng vô bản
Tùng vô vi lai
Hoàng tùng vô vi khứ
Ngã bản vô lai khứ
Tử sanh hà tằng lụy)
Nay ta phó chúc ba la
Thân khổ tứ đại khó mà bền lâu!
Niên hiệu Long Đức quy đầu
Một bảy ba ba (1733) vui chào về non
Như Trừng – Lân Giác kính tôn
An trú Cực Lạc Tây Phương tịnh nhàn.
5. Cành sen thiêng – chùa Liên Phái
Cành sen thiêng… rực ánh vàng
Giữa ao tiên, tỏa hào quang hộ đời
Lung linh pháp bảo sáng ngời
“Cải gia vi tự” độ người thức tâm
Xin vua rủ áo vượt phàm
Lìa xa tục lụy, linh nham phong trần
Xuất gia giải thoát làm tăng
Biến phủ thành tự, hỏi rằng dễ chi?
Đáp rằng: cắt tóc quy y
Đi tu theo Phật, vậy thì độ sanh
Lân Giác thượng sĩ hóa thành
Liên hoa Phật tự[2] thiện lành ngoài trong
Thương đời biển khổ long đong
“Cứu Sinh Thập Nguyện” thoát vòng trầm luân
Viết kinh khắc gỗ thiên chân
“Trùng tang” cầu cúng khỏi nhân sầu buồn!
Chùa Liên Phái vạn niềm thương
Cứu nhân độ thế thoát đường khổ ưu
“Như Trừng – Lân Giác” Trượng phu!
Chùa Liên Phái, mùng 10/02/Quý Mão - 2023
Trần Quê Hương
***
[1] Vua Lê Hy Tông[2] Chùa Liên Phái ngày nay
Dù là kỳ quan thiên nhiên hay kỳ quan nhân tạo, Núi Kailash vẫn tiếp tục truyền cảm hứng và làm say mê lòng người; ý nghĩa tâm linh của nó, bắt nguồn từ những truyền thống cổ xưa, vượt qua mọi tranh cãi về nguồn gốc.
Giai đoạn 1945-1954 là một minh chứng hùng hồn cho tinh thần yêu nước và sự nhập thế của các tổ chức Phật giáo Việt Nam. Đứng trước hiểm họa mất nước, các tổ chức Phật giáo yêu nước đã tham gia vào mọi mặt của cuộc kháng chiến, thể hiện sự dấn thân toàn diện.
Sự có mặt của dòng thiền do tổ sư Thiệt Vinh Bửu Hạnh khai sáng tuy không rực rỡ vạn đại như dòng thiền của pháp đệ Liễu Quán nhưng cũng đã kịp lưu lại dấu ấn truyền thừa trong dòng chảy Phật giáo Việt Nam.
Mỗi người cần học cách kiểm soát sân hận, thực tập từ bi và chính niệm trong ứng xử. Khi ấy, xã hội sẽ bớt đi những bi kịch oan trái, những tấm lòng thiện nguyện sẽ được lan tỏa đúng giá trị.
Giai đoạn 1945-1954 là một minh chứng hùng hồn cho tinh thần yêu nước và sự nhập thế của các tổ chức Phật giáo Việt Nam. Đứng trước hiểm họa mất nước, các tổ chức Phật giáo yêu nước đã tham gia vào mọi mặt của cuộc kháng chiến, thể hiện sự dấn thân toàn diện.
Trải qua bao lớp bụi thời gian, Chùa Cầu vẫn vững chãi như chứng nhân của lịch sử Hội An. Nét đẹp trầm mặc, linh thiêng mà thanh thoát khiến nơi đây trở thành “trái tim” phố Hội trong lòng người dân và du khách.
Trong tiến trình lịch sử, từ kháng chiến đến kiến quốc, Phật giáo Việt Nam luôn chứng minh sức sống mạnh mẽ của mình, vừa là chỗ dựa tinh thần, vừa là lực lượng đồng hành cùng dân tộc trên mọi chặng đường.
Từ Nam ra Bắc, các đoàn thể Tăng già Cứu quốc và Phật giáo Cứu quốc được thành lập, tập hợp Tăng Ni, Phật tử đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc.
Vai trò của Phật giáo trong giai đoạn 1945-1975 khẳng định một đặc trưng nổi bật của lịch sử Việt Nam thế kỷ XX: sự gắn bó giữa đạo và đời, nơi Phật giáo không chỉ tồn tại như một thiết chế tín ngưỡng, mà còn là một lực lượng lịch sử, văn hóa và chính trị.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cổ tự Vĩnh Hòa ngày nay mà chúng ta nhìn thấy là một ngôi chùa được xây dựng lại vào những năm 60 của thế kỷ XX trên nền cũ của chùa, nhưng tấm bình phong dựng trước chùa và một số pháp tượng, pháp khí xưa còn tồn tại đã phản ánh chùa Vĩnh Hòa có niên đại tạo lập sớm trên vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế.
Bình luận (0)