Trang chủ Giáo lý - Kinh sách Tích truyện Pháp cú – Phẩm 4 (Phần 6/7)

Tích truyện Pháp cú – Phẩm 4 (Phần 6/7)

Tập "Tích truyện Pháp cú" này được dịch theo bản Anh ngữ "Buddhist Legends" của học giả Eugène Watson Burlingame. Nhà học giả này đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú Sớ Giải (Dhammapada Commentary) bằng tiếng Pàli.

Đăng bởi: Phí Thanh Hoa
ISSN: 2734-9195

Tích truyện Pháp cú – Phẩm 4 (Phần 6/7)

Tập “Tích truyện Pháp cú” này được dịch theo bản Anh ngữ “Buddhist Legends” của học giả Eugène Watson Burlingame. Nhà học giả này đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú Sớ Giải (Dhammapada Commentary) bằng tiếng Pàli.

Tích truyện Pháp cú – Phẩm 4 (Phần 6/7)

9.Câu Hỏi Của Trưởng Lão A Nan

Hương các loài hoa thơm…

Tại Xá Vệ Thế Tôn đã dạy câu Pháp Cú trên khi trả lời câu hỏi của Trưởng lão Anan.

Một buổi chiều, trong khi đang ngồi tư duy quán tưởng, Trưởng lão A-nan chợt có nghĩ Thế Tôn hội đủ ba loại hương rất ưu việt là hương gỗ chiên đàn, hương rễ cây và hương hoa. Cả ba thứ hương đều bay theo chiều gió. Không biết có thứ hương nào có thể bay ngược gió, hoặc vừa bay thuận vừa bay nghịch gió?

Tôn giả không muốn một mình moi óc tìm hiểu, nên đến hỏi Thế Tôn, và sau đó Ngài được trả lời:

– Này A-nan! Có thứ hương bay theo chiều gió và cũng có thứ hương bay nghịch gió. Này A-nan! Tại bất cứ làng mạc, phố thị nào trên thế gian này, ai cũng vậy, đàn ông hay đàn bà, quy y Tam bảo, giữ giới không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và các chất say, nếu người đó đức hạnh, sống đời tại gia đoan chánh, tâm không tham nhiễm, người đó vị tha, rộng lượng, hoan hỷ trong hạnh bố thí, biết lắng nghe lời cầu xin, hoan hỷ trong hạnh cúng dường, thì mọi Tỳ-kheo và đạo sĩ Bà-la-môn khắp nơi sẽ tán thán, mọi thiên thần, thánh thần sẽ tán thán. Và như thế, này A-nan, đó là thứ hương bay thuận và nghịch gió.

Thế Tôn nói Pháp Cú:

 (54) Hương các loài hoa thơm,

 Không ngược bay chiều gió.

 Nhưng hương người đức hạnh,

 Ngược gió khắp tung bay.

 Chỉ có bậc chân nhân,

 Tỏa khắp mọi phương trời.

 (55) Hoa chiên-đàn, già-la,

 Hoa sen, hoa vũ quý,

 Giữa những hương hoa ấy,

 Giới hương là vô thượng.

10.Ðế Thích Cúng Dường Ðại Ca-Diếp

Ít giá trị hương này…

Thế Tôn dạy câu trên khi ngụ tại Veluvana, liên quan đến sự cúng dường Trưởng lão Ðại Ca-diếp. Một hôm Trưởng lão Ðại Ca-diếp xuất định sau bảy ngày nhập Diệt tận định, đi ra ngoài với ý định khất thực tuần tự nhà này qua nhà khác trong thành Vương-xá. Lúc đó năm trăm thiên nữ gót son, vợ của vua trời Ðế Thích vừa thức dậy và chuẩn bị năm trăm phần cúng dường hết cả cho Trưởng lão.

Phẩm vật trên tay, họ chặn Trưởng lão giữa đường, xin:

– Thưa Tôn giả, xin Ngài nhận cúng dường cho chúng con ân triêm công đức.

Trưởng lão:

– Tất cả chư vị hãy đi đi! Tôi định ban ân huệ cho người nghèo.

– Bạch Tôn giả, xin đừng hại chúng con, hãy ban phước cho chúng con!

Nhưng Trưởng lão biết họ nên vẫn từ chối, và khi thấy họ không chịu đi mà còn muốn tiếp tục cầu xin nữa, Ngài bảo:

– Các ngươi không biết chỗ của mình. Hãy đi đi!

Rồi Ngài búng tay vào họ.

Nghe Trưởng lão búng tay, các thiên nữ mất bình tĩnh không dám ở lại, phải bay về cõi trời. Họ kể lại tự sự cho Ðế Thích nghe. Ông hỏi:

– Các ngươi đi trong hình dạng ra sao?

– Dạ, như thế này, các ngươi làm sao cúng dường Trưởng lão được!

Chính Ðế Thích cũng muốn cúng dường Trưởng lão. Ông biến thành một người thợ dệt già lụm khụm, răng long, tóc bạc, lưng còng, thân thể tiều tụy. Ông biến thiên nữ Thiện Sanh thành một bà già. Rồi ông dùng thần lực tạo một ngõ hẻm thợ dệt, và ngồi quay sợi. Lúc ấy, Trưởng lão đang đi vào thành, vẫn tâm niệm dành phước cho người nghèo. Thấy con hẻm ở ngoại thành, Ngài nhìn quanh rồi chú ý đến hai ông bà già.

Ông già Ðế Thích đang kéo chỉ và Thiện Sanh quấn chỉ vào thoi. Trưởng lão nghĩ rằng già cả lụm cụm thế đó mà phải làm việc tay chân thì chắc không ai trong thành này nghèo hơn họ, chỉ cần một vá cơm sớt cho Ngài là Ngài có thể ban phước cho họ. Do đó Trưởng lão tiến đến.

Thấy bóng Trưởng lão, Ðế Thích dặn Thiện Sanh làm như không trông thấy, cứ ngồi đó im lặng, rồi sẽ nói gạt để cúng dường ông. Trưởng lão dừng trước cửa nhà, họ giả vờ không thấy, cứ tiếp tục làm việc.

Một lát, Ðế Thích bỗng ngẩng lên bảo vợ:

– Hình như có Trưởng lão đang đứng trước cửa. Bà ra xem!

Thiện Sanh không chịu, bảo ông ra. Gặp Trưởng lão tên gì vì mắt ông kèm nhèm trông không rõ. Xong lấy tay che trán, ông nhìn chăm chú và làm như ngạc nhiên, la lên:

– Chao ôi! Chao ôi! Trưởng lão Ðại Ca-diếp! Lâu ngày quá xá Ngài mới đến lều rách của chúng tôi. Bà nó ơi, còn gì trong nhà không?

Thiện Sanh tỏ vẻ như đang bối rối, nhưng cũng vội đáp:

– À, à. Vâng, cũng có đấy, ông à!

Ðế Thích đỡ lấy bát của Trưởng lão thưa:

– Bạch Tôn giả, xin đừng để ý đến thức ăn ngon hay dở, mà cho chúng con được ân phước. Trưởng lão đưa bát thầm nghĩ, dù họ cho ta một cọng rau hay một nắm cám vụn, ta vẫn nhận và ban phước cho họ. Ðế Thích vào nhà sớt cơm đầy bát và mang ra đặt vào tay Ngài. Lập tức, phần cúng dường đó, được gia đủ loại nước sốt và cà ri, tỏa mùi thơm ngát cả thành Vương-xá. Trưởng lão thắc mắc sao trông ông lão này yếu đuối thiếu thốn mà thức ăn lại dồi dào như của Ðế Thích.

Nhìn ra quả là trời Ðế Thích, Ngài bảo:

– Ông đã làm một việc sai lầm nghiêm trọng khi cướp đoạt của người nghèo cơ hội tạo công đức. Vì bố thí cho ta hôm nay, bất cứ người nghèo nào cũng sẽ được địa vị tổng tư lệnh hay chưởng khố.

Ðế Thích hỏi:

– Bạch Tôn Gỉa, có người nào nghèo hơn con chăng?

– Sao ông lại nghèo, khi đang hưởng phú quí trên cung trời?

– Bạch Tôn giả, lý do như sau. Trước khi Phật xuất hiện ở thế gian con đã tạo nhiều công đức. Khi Phật xuất hiện ở thế gian, có ba vị trời cùng đẳng cấp với con, vì tạo nhiều công đức nên được nhiều oai lực hơn con. Khi có mặt con đó, ba vị cần mở hội vui chơi là họ cứ đem các tỳ nữ xuống đường, còn con thì phải quay gót vào nhà. Oai lực của họ sáng mạnh hơn con.

Vậy, bạch Tôn giả, ai nghèo hơn con?

– Nếu đúng như thế thì từ đây đừng đánh lừa ta để cúng dường nữa.

– Con có được công đức hay không nếu lừa dối để cúng dường?

– Có, đạo hữu ạ.

– Nếu đúng thế, bạch Tôn giả, con có bổn phận phải tạo nhiều công đức.

Nói xong Ðế Thích chào Trưởng lão, đi nhiễu quanh Trưởng lão với Thiện Sanh theo sau, rồi họ bay lên không, nói lên câu kệ:

 Ôi cúng dường, cúng dường Ba-la-mật,

 Ðã khéo dâng ngài Ca-diếp được rồi!

Trong kinh Udàna cũng có kể câu chuyện tương tự.

Ðến đoạn Ðế Thích bay lên không và ngâm câu kệ, trong Udàna ghi tiếp:

“Thế Tôn đứng trong tinh xá, nghe tiếng Ðế Thích. Ông ta liền bảo đệ tử:

– Các Tỳ-kheo, hãy xem vua trời Ðế Thích. Ông ta vừa ngâm câu kệ, và đang bay trong hư không.

– Bạch Thế Tôn, ông ấy đã làm chi?

– Ông ta đã đánh lừa được Ca-diếp con ta để cúng dường. Xong việc rồi nên ông ta đang bay trên trời và ngâm nga một bài kệ.

– Bạch Thế Tôn, sao ông ấy biết nên cúng dường Trưởng lão?

– Các Tỳ-kheo, cả trời và người đều mến người bố thí như con ta.

Nói xong, chính Thế Tôn cũng ngâm câu kệ ấy.”

Ngoài ra, đoạn văn sau cũng được ghi trong kinh:

Với thiên nhãn thanh tịnh siêu vượt loài người, Thế Tôn nghe vua trời Ðế Thích, trong khi bay trên không, đã ba lần ngâm câu kệ này trên trời:

 Ôi cúng dường, cúng dường Ba-la-mật,

 Ðã khéo dâng ngài Ca-diếp được rồi!

Khi ấy, Thế Tôn thấy thế liền nói kệ:

 Tỳ-kheo sống bằng khất thực

 Tự mình nương tựa chính mình

 Tịch lặng, chú tâm, hằng giác

 Chư thiên tôn kính hoan nghinh.

Nói kệ xong, Thế Tôn dạy:

– Các Tỳ-kheo, vua trời Ðế Thích qua hương đức hạnh đã đến với con ta để cúng dường.

Và Ngài nói Pháp Cú:

 (56) Ít giá trị hương này,

 Hương già-la, chiên-đàn,

 Chỉ hương người đức hạnh,

 Tối thượng tỏa thiên giới.

11.Godhica Chứng Niết Bàn

Giữa ai có giới hạnh…

Câu này Phật dạy khi ngụ tại Trúc Lâm gần Vương-xá, liên quan đến Trưởng lão Godhika chứng Niết-bàn.

Trong khi Trưởng lão này ngụ tại Hắc Thạch trên đỉnh núi Isigili, chánh niệm, tinh tấn, kiến quyết, và đã được tâm giải thoát do hành thiền, thì ngài bị ngã bệnh vì tinh cần thái quá và không thể trụ tâm vào đề mục thiền được lâu. Lần thứ hai, lần thứ ba, và đến sáu lần, ngài vào thiền định và lại bị trạo hối quấy nhiễu.

Lần thứ bảy, ngài trụ tâm được rồi liền tự nghị: “Sáu lần ta đã bị bệnh làm cho tán tâm. Một người bị tán tâm thì đời sau thật không biết ra sao. Ðã đến lúc phải dùng đến lưỡi dao cạo.”

Rồi ông lấy dao cạo đầu, xong nằm trên giường định cắt đứt cổ họng. Ma vương biết ý định của Ngài, nghĩ rằng nếu Ngài đạt được Minh sát tuệ, sẽ chứng A-la-hán, nên muốn cản Ngài. Tự thấy lời mình khó thuyết phục Ngài, Ma vương muốn cầu cứu với Thế Tôn, nên biến mình thành một người tầm thường đến gặp Phật và nói:

Hỡi đấng Ðại Hùng, bậc Ðại Trí Tuệ!

Rực rỡ thần lực, rực hào quang,

Người vượt thắng hận thù, sợ hãi.

Xin đảnh lễ bên chân Ngài, hỡi đấng Chánh Biến Tri!

Ðấng Ðại Hùng! Ðệ tử Ngài đã khắc phục sanh tử

Lại hướng về cái chết, đang rắp tâm.

Hãy cản ngăn, hãy thuyết giảng đạo thâm

Hãy thương xót, hỡi người ban ánh sáng!

Ðức Thế Tôn, lừng lẫy tiếng tăm trong nhân loại!

Môn đệ Ngài, đang an vui trong giáo pháp,

Sao giờ lại muốn kết thúc đời,

Chưa tròn ý nguyện, chưa thuần thục?

Ngay lúc đó Trưởng lão đưa lưỡi dao lên. Ðồng thời Thế Tôn cũng nhận ra Ma vương, bèn nói kệ:

Người với tâm kiên định, hết còn khao khát sống.

Godhika diệt danh được dục tham, đã chứng đạt Niết-bàn.

Và Thế Tôn dẫn một số đông Tỳ-kheo vào tận nơi Trưởng lão đang nằm, tay đã buông dao. Trong khi đó ác ma giống như một cột khói hay một khối đen, chạy khắp phương hướng tìm thần thức của Trưởng lão. Ác ma cứ thắc mắc không biết thần thức của Trưởng lão tụ tại đâu.

Thế Tôn chỉ cho các Tỳ-kheo cột khói và khối đen, bảo:

– Này các Tỳ-kheo, đó là ác ma đang đi tìm thần thức người thanh niên hiền thiện, vì không biết nó an trụ tại đâu. Nhưng này các Tỳ-kheo, thần thức của Godhika không tụ.

Bởi vì, này các Tỳ-kheo, người thanh niên hiền thiện Godhika đã nhập Niết-bàn.

Ma vương không thể tìm thần thức của Trưởng lão, bèn giả trang thành một ông hoàng, tay cầm cây đàn bằng gỗ Vilva màu vàng nhạt, đến gặp Thế Tôn và hỏi:

 Bốn phương tám hướng tôi tìm kiếm,

 Chẳng thấy Godhika, ngài ở đâu?

Thế Tôn đáp:

 Người với tâm kiên định

 Quyết chí, chuyên thiền định

 Thiền duyệt bạn hằng vui

 Ngày đêm đều tinh tấn

 Ðâu còn lòng khát sống

 Dẹp thắng hết ma quân

 Chẳng còn nợ tái sanh

 Hết mối manh tham ái

 Godhika, Tỳ-kheo ấy

 Ðã chứng đạt Niết-bàn.

Thế Tôn nói xong, Ma vương bèn đáp lại bằng câu kệ:

 Tràn ngập thất vọng

 Quỷ buông đai đàn

 Lòng buồn trĩu nặng

 Hắn liền biến tan.

Và Thế Tôn bảo tiếp:

– Ác ma, ngươi có ý đồ gì mà tìm chỗ tụ của thần thức người thanh niên hiền thiện?

Một trăm hay một ngàn ngươi cũng không bao giờ tìm được chỗ đó.

Xong Ngài nói Pháp Cú:

 (57) Giữa ai có giới hạnh,

 An trú không phóng dật,

 Chánh trí, chân giải thoát,

 Ác ma không thấy đường.

*

(Còn tiếp)

✿✿✿

Nguồn: “Tích Truyện Pháp Cú” được Thiền viện Viên Chiếu dịch theo bản Anh ngữ “Buddhist Legends” của học giả Eugène Watson Burlingame.
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT


Ủng hộ Tạp chí Nghiên cứu Phật học không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Tạp chí mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.
Mã QR Tạp Chí NCPH

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC

SỐ TÀI KHOẢN: 1231 301 710

NGÂN HÀNG: TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)

Để lại bình luận

Bạn cũng có thể thích

Logo Tap Chi Ncph 20.7.2023 Trang

TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ

Phòng 218 chùa Quán Sứ – Số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Điện thoại: 024 6684 66880914 335 013

Email: tapchincph@gmail.com

ĐẠI DIỆN PHÍA NAM

Phòng số 7 dãy Tây Nam – Thiền viện Quảng Đức, Số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, Tp.HCM.

GIẤY PHÉP XUẤT BẢN: SỐ 298/GP-BTTTT NGÀY 13/06/2022

Tạp chí Nghiên cứu Phật học (bản in): Mã số ISSN: 2734-9187
Tạp chí Nghiên cứu Phật học (điện tử): Mã số ISSN: 2734-9195

THÔNG TIN TÒA SOẠN

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

Gs.Ts. Nguyễn Hùng Hậu

PGs.Ts. Nguyễn Hồng Dương

PGs.Ts. Nguyễn Đức Diện

Hòa thượng TS Thích Thanh Nhiễu

Hòa thượng TS Thích Thanh Điện

Thượng tọa TS Thích Đức Thiện

TỔNG BIÊN TẬP

Hòa thượng TS Thích Gia Quang

PHÓ TỔNG BIÊN TẬP

Thượng tọa Thích Tiến Đạt

TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP

Cư sĩ Giới Minh

Quý vị đặt mua Tạp chí Nghiên cứu Phật học vui lòng liên hệ Tòa soạn, giá 180.000đ/1 bộ. Bạn đọc ở Hà Nội xin mời đến mua tại Tòa soạn, bạn đọc ở khu vực khác vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số: 024 6684 6688 | 0914 335 013 để biết thêm chi tiết về cước phí Bưu điện.

Tài khoản: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC

Số tài khoản: 1231301710

Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam (BIDV), chi nhánh Quang Trung – Hà Nội

Phương danh cúng dường