Trang chủ Văn hóa Minh thông tiếng chuông chùa

Minh thông tiếng chuông chùa

Đăng bởi: Anh Minh
ISSN: 2734-9195

Tác giả: Trịnh Chu

Một ca khúc thành công, xét trên phương diện bản phổ, đó phải là sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc và ca từ. Âm nhạc có nhiệm vụ khơi gợi, dẫn dắt nội dung ca từ sao cho thật phù hợp với tuyến tính giai điệu. Ca từ lại cũng phải tuân thủ quy luật của âm nhạc, đồng thời phải tuân theo quy luật của ngôn ngữ. Chiếu kiến phương diện trên, Vạn Đức chùa tôi (âm nhạc: Đình Nghĩ, phỏng thơ: Thích Vạn Trí) là một ca khúc hay, khi âm nhạc và ca từ cùng đỡ nâng nhau, cái này là cái cớ cho cái kia giãi bày, cái kia là điểm tựa cho cái này thể hiện.

Ca khúc Vạn Đức chùa tôi, nhạc sĩ Đình Nghĩ – Chi hội trưởng chi Hội Nhạc sĩ Việt Nam tại Lâm Đồng – viết ở giọng Si giáng trưởng (Bb major) với thể thức 3 đoạn đơn A, B và A, dựa trên ý thơ của Thượng tọa Thích Vạn Trí – trụ trì chùa Vạn Đức, xã Tà Nung, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng – đầy vị đạo:

“Im nghe tiếng chuông chiều nhất tâm/
Chùa tôi chân nguyên đỉnh đèo/
Men theo nắng mưa hè sáng trưa/
Vạn Đức an nhiên bóng nghiêng”.

Tapchinghiencuuphathoc.vn Tieng chuong chua 1

Thượng tọa Thích Vạn Trí (bên phải) và Nhạc sĩ Đình Nghĩ (bên trái)

Nhạc sĩ đã sử dụng thủ pháp ly điệu, cách tiến hành giai điệu tựa một khúc đồng giao: dịu nhẹ, thỏ thẻ, mênh mang… để vẽ ra không gian chùa Vạn Đức thật nguyên sơ. Thiền tự đó, trong khiết như giọt sương thu, sáng ấm như vầng trời đông, tịch tĩnh và an lạc như tiếng chuông ngân. Câu nhạc vì thế vừa có sự thành kính đối với nơi tỏa rạng hào quang đức Phật, vừa có tính kính ngưỡng đối với cái chân tâm của chính mình:

“Im nghe tiếng kinh Thiền sớm mai/
Bầy nai thong dong đêm dài/
Sương thu thoảng ru miền viễn du/
Vạn Đức linh thông bốn mùa”.

Ta nghe trong đó có tiếng kinh Thiền giữa đất trời rộng mở, tiếng cây lá nỉ non hát, tiếng nắng reo ròn vỡ, tiếng bầy nai nhẩn nha nghe kinh bên suối, tiếng giọt sương thu vọng xa… Tất cả cứ quyện lẫn, đan xen, tương trợ, sóng đôi trong thênh thang núi đồi, trong hơi ấm ngôi chùa, qua không gian và thời gian. Ta nhất tâm đảnh lễ lời kinh Thiền, rồi tĩnh thức tự tính, trực chỉ chân tâm, tìm về bản tâm sơ nhiên trong chính mình. Trong nhất niệm chuông ngân, ta ngộ ra rằng niềm hạnh phúc và sự hoan hỉ thực sự chỉ có thể tìm thấy nơi cội nguồn chân chính của bản tâm. Con đường tu tập chính là quá trình “phản bổn quy chân”, nghĩa là tự hoàn thiện chính mình trên cơ sở cái gốc cội nguồn của mình.

Cũng chỉ khi ta nhận thức rõ vạn pháp hữu vi là vô thường, nhận ra con đường sinh diệt luân hồi, nguyên nhân và kết quả của sự biến dịch, tự khắc bước ra khỏi tham, sân, si. Bấy giờ, ta bắt đầu bước vào con đường Phật đạo, không còn bị vọng tưởng lừa gạt, hay bị vạn pháp hữu vi trói buộc:

“Đóa hoa rừng giác ngộ/
Đà Lạt ngàn từ bi/
Rót tan chiều tiễn biệt mộng mị lòng thảnh thơi/
Ánh đạo vàng thắp lửa/
Đà Lạt vọng trời đông/
Đón xuân hồng tĩnh lạc vào chùa mùa thinh không”.

Ở đoạn nhạc này, ta thấy xuất hiện một ít chất liệu âm nhạc ngũ cung Tây Nguyên, tương phản hoàn toàn với đoạn nhạc A. Nhạc sĩ Đình Nghĩ tạo quãng rất rộng (trên một quãng 8), khiến cho ngôn ngữ âm nhạc trong đoạn nhạc B nghe như tiếng vọng linh thiêng của tuệ giác.

Theo Thượng tọa Thích Vạn Trí, một khi đã ly tham, không chấp chặt sắc tướng, thì ở đâu cũng đều hạnh phúc, mùa nào cũng là mùa xuân:

“Nhắm mắt nghe xuân hồng vọng lại/
Ngàn năm hoa nở vốn là xuân/
Xuân đến, xuân đi, xuân thực tại/
Khứ lai vô ngại sống là xuân”.

Ca khúc Vạn Đức chùa tôi được nhạc sĩ khép lại bằng chính giai từ, tiết điệu của đoạn nhạc A:

“Im nghe tiếng chuông chiều nhất tâm/
Chùa tôi chân nguyên đỉnh đèo/
Men theo nắng mưa hè sáng trưa/
Vạn Đức an nhiên bóng nghiêng/
Im nghe tiếng kinh Thiền sớm mai/
Bầy nai thong dong đêm dài/
Sương thu thoảng ru miền viễn du/
Vạn Đức linh thông bốn mùa”.

Tuy nhiên, qua Thiền định, ngữ nghĩa của đoạn nhạc A kết thúc đã khác đi rất nhiều so với đoạn nhạc A mở đầu, ấy là bởi nhất tâm nâng lên một tầm cao, không còn bị thực tại giả huyền lôi cuốn nữa, cũng không có sự nhìn về ngôi chùa nào nữa. Tất cả đều vắng lặng: Tịnh tâm, tịnh tính, rộng lòng từ bi. Chính cái tâm ấy, mở ra sự an nhiên, hoan hỉ, chấm dứt cái biến dịch thiên hình vạn trạng của vạn pháp.

Tác giả: Trịnh Chu

GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT


Ủng hộ Tạp chí Nghiên cứu Phật học không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Tạp chí mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.
Mã QR Tạp Chí NCPH

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC

SỐ TÀI KHOẢN: 1231 301 710

NGÂN HÀNG: TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)

Để lại bình luận

Bạn cũng có thể thích

Logo Tap Chi Ncph 20.7.2023 Trang

TÒA SOẠN VÀ TRỊ SỰ

Phòng 218 chùa Quán Sứ – Số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Điện thoại: 024 6684 66880914 335 013

Email: tapchincph@gmail.com

ĐẠI DIỆN PHÍA NAM

Phòng số 7 dãy Tây Nam – Thiền viện Quảng Đức, Số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, Tp.HCM.

GIẤY PHÉP XUẤT BẢN: SỐ 298/GP-BTTTT NGÀY 13/06/2022

Tạp chí Nghiên cứu Phật học (bản in): Mã số ISSN: 2734-9187
Tạp chí Nghiên cứu Phật học (điện tử): Mã số ISSN: 2734-9195

THÔNG TIN TÒA SOẠN

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

Gs.Ts. Nguyễn Hùng Hậu

PGs.Ts. Nguyễn Hồng Dương

PGs.Ts. Nguyễn Đức Diện

Hòa thượng TS Thích Thanh Nhiễu

Hòa thượng TS Thích Thanh Điện

Thượng tọa TS Thích Đức Thiện

TỔNG BIÊN TẬP

Hòa thượng TS Thích Gia Quang

PHÓ TỔNG BIÊN TẬP

Thượng tọa Thích Tiến Đạt

TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP

Cư sĩ Giới Minh

Quý vị đặt mua Tạp chí Nghiên cứu Phật học vui lòng liên hệ Tòa soạn, giá 180.000đ/1 bộ. Bạn đọc ở Hà Nội xin mời đến mua tại Tòa soạn, bạn đọc ở khu vực khác vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số: 024 6684 6688 | 0914 335 013 để biết thêm chi tiết về cước phí Bưu điện.

Tài khoản: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC

Số tài khoản: 1231301710

Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam (BIDV), chi nhánh Quang Trung – Hà Nội

Phương danh cúng dường